Một nghiên cứu thú vị của Nhật Bản cho thấy một đoạn protein xâm nhập vào não sau khi ăn đậu nành có thể làm giảm quá trình suy giảm trí nhớ ở chuột.
Trong thử nghiệm động vật của mình, các nhà khoa học từ Đại học Kyushu (Nhật Bản) đã tiêm hóa chất vào các con chuột để chúng bị một dạng suy giảm trí nhớ mô phỏng bệnh Alzheimer ở người – một trong các căn bệnh nan y đang gia tăng chóng mặt trời thời gian gần đây.
Kết quả cho thấy khi tiêu thụ chiết xuất đậu nành, dạ dày phá vỡ các protein và khiến một đoạn protein – cụ thể hơn là một dipeptide – có khả năng ảnh hưởng đến bộ nhớ, có thể từ dạ dày di chuyển thẳng lên não.
Đậu nành là một thực phẩm có thể chế biến thành rất nhiều loại đồ ăn, thức uống – ảnh minh họa từ Internet
Vượt một hàng rào có tính chọn lọc cao để đi từ m.áu vào não, protein này có thể xâm nhập não bộ và đẩy lùi quá trình suy giảm trí nhớ, theo phân tích của giáo sư Toshiro Matsui, tác giả chính của nghiên cứu.
Sự cải thiệt về trí não ở các con chuột đã thể hiện rõ ràng trong thí nghiệm này, theo bài công bố mới trên tạp chí khoa học npj Science of Food.
Giáo sư Matsui cho biết ông và các cộng sự đang tiến tới các thí nghiệm và bước nghiên cứu cao hơn để xem xét tác động của quá trình này trực tiếp trên con người. Nếu tiếp tục thành công, đây sẽ là tin vui lớn bởi đậu nành có thể được bổ sung tự nhiên khi ăn uống. Đây là loại thực phẩm có khả năng chế biến đa dạng: làm sữa đậu nành, đậu phụ, đậu hũ, tương, chao…
Alzheimer là bệnh phổ biến nhất trong nhóm bệnh mất trí nhớ. Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy mất trí nhớ là nguyên nhân gây t.ử v.ong sớm thứ 5 toàn cầu và đang ngày một gia tăng. Một số quốc gia như Anh, Mỹ, Úc… còn xếp nó lên hàng thứ nhất, thứ nhì. Đến nay, đó vẫn là một nhóm bệnh không thuốc chữa.
Cuộc chiến với ung thư đã kéo dài 108 năm, vì sao chúng ta chưa thắng cuộc?
Không giống như bệnh do vi khuẩn hay virus, ung thư phát sinh từ chính các tế bào bên trong cơ thể của con người và điều này khiến mọi chuyện phức tạp hơn rất nhiều.
Đã hơn 1 thế kỷ trôi qua kể từ khi con người lần đầu tiên phát hiện ra tế bào ung thư. Nền y học đã có những bước phát triển vượt bậc trong từng ấy thời gian, và cũng đã giúp chúng ta chữa khỏi được nhiều căn bệnh từng được coi là nan y, thế nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa làm được điều đó với ung thư?
Việc điều trị ung thư không giống như cách chúng ta t.iêu d.iệt một mầm bệnh ngoại lai như: vi khuẩn, virus, nấm bệnh, điều mà nền y học có thể thực hiện một cách dễ dàng. Ung thư phát sinh từ chính các tế bào bên trong cơ thể của con người và điều này khiến mọi chuyện phức tạp hơn rất nhiều.
Theo ý kiến chung của nhiều chuyên gia, có 3 yếu tố chính tạo nên khả năng bất bại của căn bệnh nan y này, đó là: sự tăng sinh không giới hạn và di căn của các tế bào ung thư; khả năng kháng các phương pháp điều trị; sự hạn chế của các phương pháp điều trị hiện có.
Sự tăng sinh không giới hạn và di căn của các tế bào ung thư
Cần hiểu rằng, ung thư khởi phát từ sự phân chia không kiểm soát của các tế bào có bộ gen bị hư hại, đột biến trong cơ thể. Vì quá trình nhân đôi được thực hiện liên tục, các tế bào ung thư sẽ được sản sinh thêm với tốc độ chóng mặt và không ngừng xâm lấn sang các mô khỏe mạnh ở lân cận; bước cuối cùng, khi ung thư xâm nhập vào hệ bạch huyết, nó có thể tự do di chuyển khắp cơ thể và hình thành khối u thứ phát ở những vị trí khác, quá trình này được gọi là di căn.
Sự phát triển nhanh chóng của các tế bào ung thư, cùng với việc khó xác định được phạm vi di căn của chúng gây ra nhiều khó khăn trong việc “tìm diệt” ung thư. Khi các tế bào ung thư không được kiểm soát và không ngừng phát triển, chúng sẽ dần phá hủy các mô và cơ quan bình thường, gây tổn hại nghiêm trọng đến các chức năng sống và cuối cùng dẫn đến cái c.hết của bệnh nhân.
Khả năng kháng các phương pháp điều trị
Đối với bệnh ung thư, việc điều trị sẽ có hiệu quả rõ rệt trong thời gian đầu, bằng chứng là các tế bào ác tính nhanh chóng bị t.iêu d.iệt, khối u giảm kích thước đáng kể và có thể biến mất. Tuy nhiên, sau giai đoạn này, các tế bào ung thư còn sót lại sẽ nhanh chóng biến đổi để thích nghi với “kẻ thù” của mình, từ đó dễ dàng sống sót trong các đợt điều trị tiếp theo, điều này dẫn đến hiện tượng ung thư bất ngờ quay trở lại sau một thời gian điều trị.
Có nhiều cơ chế giúp ung thư hình thành được khả năng kháng thuốc. Lấy ví dụ, trong một nghiên cứu vừa được công bố của của Trung tâm Ung thư Mays (Mỹ), các chuyên gia đã xác định các tế bào ung thư vú có thể linh hoạt chuyển đổi sang các hình dạng khác nhau, phát triển nhanh lên hay chậm đi hoặc thậm chí là thay đổi về kích cỡ để “lẩn trốn” phương pháp điều trị, thông qua những tín hiệu gen đặc biệt.
Bên cạnh đó, trong một nghiên cứu được thực hiện bởi các chuyên gia đến từ Đại học California (Mỹ), nhóm tác giả đã xác định được một quá trình gọi là macropinocytosis (Đại ẩm bào) cho phép các tế bào ung thư có thể phát triển khả năng kháng thuốc thông qua việc “ăn” các tế bào đã c.hết, từ đó mang lại cho chúng nguồn năng lượng và dưỡng chất để phát triển.
GS Aimee Edinger – Đại diện nhóm tác giả cho biết: “Các tế bào ung thư đòi hỏi một lượng dưỡng chất rất lớn. Hóa trị liệu và các phương pháp điều trị khác làm tổn thương ADN của tế bào ung thư, buộc chúng phải tìm cách hồi phục lại khả năng trao đổi chất, để có thể sửa chữa các thành phần bị hư hại, nhờ đó tiếp tục sinh tồn và phát triển. Bằng cách ăn các tế bào đã c.hết ở xung quanh, chúng có thể hấp thu được lượng amino axit, đường, axit béo và nucleotides cần thiết để phát triển”.
Sự hạn chế của các phương pháp điều trị ung thư
Vì tế bào ung thư bản chất là các tế bào của cơ thể nhân đôi không kiểm soát nên chúng gần như giống “phiên bản khỏe mạnh” của mình về cấu trúc, sự trao đổi chất, tính chất… Do đó, trong điều trị rất khó để tách biệt hoàn toàn tế bào ung thư và phần còn lại của cơ thể.
Các phương pháp điều trị phổ biến hiện nay như hóa trị, xạ trị khi tấn công tế bào ung thư thì đồng thời cũng gây tổn thương đến tế bào khỏe mạnh. Lấy ví dụ là hóa trị, bản chất của phương pháp này là sử dụng các loại hóa chất nhắm vào tế bào tăng sinh nhanh trong cơ thể. Tuy nhiên, tăng sinh nhanh là đặc điểm không chỉ có ở tế bào ung thư, mà còn ở tế bào tủy xương, tế bào nang lông, tế bào niêm mạc ruột…, khiến chúng vô tình trở thành nạn nhân của thuốc điều trị ung thư. Việc này dẫn đến các tác dụng phụ thường gặp ở bệnh nhân ung thư sau điều trị như:rụng tóc, mệt mỏi, thiếu m.áu, nôn nao, viêm loét dạ dày, các vấn đề về tiêu hóa.