Phát hiện thủ phạm gây bệnh g.iết c.hết giáo sư Stephen Hawking

Với việc phát hiện ra vai trò của các tế bào thần kinh đệm khiến các tế bào thần kinh vận động ngừng tạo ra các tín hiệu điện cần thiết cho việc kiểm soát cơ bắp, các nhà khoa học Scotland hy vọng sẽ phát triển được phương pháp chữa khỏi bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) hay còn gọi là bệnh thần kinh vận động (MND).

phat hien thu pham gay benh giet chet giao su stephen hawking 143538

Giáo sư Stephen Hawking, một bệnh nhân ALS nổi tiếng – Ảnh: Flickr

Theo The Daily Mail, các nhà khoa học đã tiến thêm một bước gần đến việc chữa khỏi căn bệnh thần kinh vận động (MND), tức bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS), đã hại c.hết giáo sư Stephen Hawking. Tế bào thần kinh vận động (motor neurons) kiểm soát các hoạt động cơ quan trọng nhất. Nếu chúng bị hư hại, người bệnh mất khả năng đi lại và nói chuyện. Không có cách chữa cho căn bệnh này. Nhưng một khám phá mới có thể thay đổi mọi thứ.

Hóa ra, có một loại tế bào khác đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh. Đó là các tế bào thần kinh đệm (glial cells). Chúng có khả năng gây hại cho các tế bào thần kinh vận động. Các nhà nghiên cứu bao gồm một nhóm từ Đại học Edinburgh, được tài trợ bởi Hiệp hội bệnh thần kinh vận động, MND Scotland và Hội đồng y và Viện Dementia, Edinburgh, Scotland, nhấn mạnh rằng thường thì các tế bào thần kinh đệm hỗ trợ tế bào thần kinh trong não và tủy sống. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân mắc bệnh thần kinh vận động, điều này không phải vậy. Khi tiến hành nghiên cứu, các nhà khoa học đã kiểm tra sự kết hợp khác nhau của các tế bào thần kinh đệm và tế bào thần kinh vận động được nuôi cấy cùng nhau trong phòng thí nghiệm. Họ đã xác định được rằng các tế bào thần kinh đệm ở bệnh nhân dẫn đến thực tế là các tế bào thần kinh vận động đã ngừng tạo ra các tín hiệu điện cần thiết cho việc kiểm soát cơ bắp.

MND hay ALS là một bệnh thoái hóa thần kinh ảnh hưởng đến các cơ bắp được sử dụng để đi lại và nói chuyện. Bệnh nhân thường chỉ sống thêm khoảng 3 đến 10 năm. Nhưng nhà vật lý nổi tiếng thế giới, giáo sư Stephen Hawking, đã sống với căn bệnh này trong hơn năm thập kỷ trước khi ông qua đời vào năm 2018.

Cho đến nay, nguyên nhân gây bệnh ALS chưa được biết, nhưng các nghiên cứu khoa học cho thấy cả di truyền lẫn môi trường đều có vai trò trong sự phát triển bệnh. Gần 15.000 người Mỹ và khoảng 5.000 người ở Anh sống chung với bệnh thần kinh vận động. Tiến sĩ Brian Dickie, giám đốc nghiên cứu của Hiệp hội bệnh thần kinh vận động, giải thích rằng bộ não con người có nhiều tế bào hỗ trợ, được gọi là tế bào thần kinh đệm, cũng như tế bào thần kinh. Trong khi các tế bào thần kinh đệm thường đóng vai trò nuôi dưỡng và hỗ trợ, thì nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng có thể vô tình đóng vai trò trong một số bệnh thần kinh bao gồm bệnh thần kinh vận động bằng cách ảnh hưởng đến tốc độ lây lan của bệnh qua hệ thần kinh trung ương. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng một loại tế bào thần kinh đệm đặc biệt gọi là tế bào hình sao dường như cản trở hoạt động của các tế bào thần kinh vận động, sau đó dần dần gây rối loạn chức năng.

Giáo sư Gareth Miles kết luận, rõ ràng các tế bào thần kinh đệm là những yếu tố chủ chốt trong căn bệnh tàn khốc này. Thật thú vị, ảnh hưởng tiêu cực của các tế bào thần kinh đệm dường như ngăn chặn các tế bào thần kinh vận động hoàn thành vai trò bình thường của chúng. Chúng tôi hy vọng rằng thông tin mới này nêu bật các mục tiêu để phát triển các phương pháp điều trị rất cần thiết và cuối cùng là phương pháp chữa trị bệnh xơ cứng teo cơ một bên.

Vũ Trung Hương

Theo motthegioi

Loại thuốc mới được cho là có khả năng điều trị ung thư ở phụ nữ

Các nhà khoa học đã tìm thấy loại DCA có khả năng điều trị lạc nội mạc tử cung, mang lại hy vọng cho hàng triệu phụ nữ chiến đấu với bệnh này, khi tìm thấy nó có thể làm giảm các tổn thương trong các nghiên cứu trên chuột.

Một loại thuốc gây tranh cãi được quảng cáo có khả năng điều trị ung thư có thể mang lại hy vọng cho hàng triệu phụ nữ đang chiến đấu với bệnh lạc nội mạc tử cung.

Tình trạng không thể chữa được khiến mô tương tự như niêm mạc tử cung phát triển ở những nơi khác, chẳng hạn như buồng trứng, niêm mạc chậu và ống dẫn trứng.

Các thử nghiệm trên chuột cho thấy dichloroacetate (DCA) có thể làm giảm kích thước các tổn thương của mô trong khung chậu. Nó hoạt động bằng cách giảm mức độ tăng tiết sữa do các tế bào tiết ra, được cho là thúc đẩy sự phát triển của tế bào bất thường.

Các học giả của Đại học Edinburgh sẽ thử nghiệm loại thuốc này ở phụ nữ, với hy vọng rằng nó có thể có tác dụng tương tự đối với con người.

Lạc nội mạc tử cung được cho là có điểm tương đồng với ung thư trong cách các tế bào hoạt động, điều này có thể giải thích tại sao DCA có thể được chứng minh là hữu ích. Một thập kỷ trước, DCA đã là tiêu đề sau khi nghiên cứu trên chuột tìm thấy hợp chất t.iêu d.iệt tế bào ung thư và giúp thu nhỏ khối u nhưng nó đã gây ra tranh cãi khi bệnh nhân bắt đầu mua thuốc trực tuyến. Các tổ chức kêu gọi bệnh nhân tránh sử dụng những hợp chất chưa được chứng minh là có tác dụng trong điều trị bệnh.

loai thuoc moi duoc cho la co kha nang dieu tri ung thu o phu nu 3fc62f

Dichloroacetate (DCA), được quảng cáo là có thể mang lại hy vọng cho hàng triệu phụ nữ chiến đấu với bệnh lạc nội mạc tử cung

Số liệu cho thấy có khoảng 176 triệu phụ nữ trên toàn thế giới bị lạc nội mạc tử cung – một tình trạng không thể chữa được. Mỗi tháng, các tế bào mô nội mạc tử cung phản ứng theo cách chính xác giống như các tế bào trong bụng mẹ, tích tụ và phá vỡ.

Các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi Giáo sư Andrew Horne, đã so sánh mô xương chậu của 16 phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung hoặc không. Họ tìm thấy các tế bào của phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung tạo ra năng lượng theo cách khác với phụ nữ không mắc bệnh này.

Kết quả là các tế bào tiết ra nhiều sữa hơn, và các nhà khoa học tuyên bố nó có thể tạo ra một môi trường hoàn hảo cho sự phát triển của các tế bào bất thường. Tiết sữa cũng được biết là kích thích sự lây lan và phát triển của các tế bào ung thư trong cơ thể, điều này đã thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu DCA.

Khi các nhà khoa học tiếp xúc tế bào người với DCA trong 48 giờ, hành vi trao đổi chất trở lại bình thường. Họ cũng thấy dịch tiết sữa có xu hướng giảm. Sau thành công của thí nghiệm, Giáo sư Horne và các đồng nghiệp sau đó cho chuột ăn DCA mỗi ngày một lần trong tuần. Kết quả cho thấy thuốc đã cắt giảm nồng độ của sữa mẹ trong dịch vùng chậu và kết quả là làm giảm kích thước lạc nội mạc tử cung.

Giáo sư Horne cho biết ông dự kiến phương pháp điều trị mới sẽ nhắm mục tiêu là lạc nội mạc tử cung vào ổ phúc mạc, lớp lót của khung chậu, nơi 80-90% trường hợp xảy ra tình trạng này.

Ông nói: “Lạc nội mạc tử cung có thể là một điều kiện thay đổi cuộc sống cho rất nhiều phụ nữ. Bây giờ chúng tôi hiểu rõ hơn sự trao đổi chất của các tế bào ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung, từ đó có thể làm việc để phát triển một phương pháp điều trị không có nội tiết tố”.

Hiện nay các phương pháp điều trị cho lạc nội mạc tử cung là dựa trên hormone, có thể tạo ra tác dụng phụ khó chịu hoặc phải phẫu thuật, một nửa trường hợp có thể sẽ mắc bệnh trở lại.

Các nhà nghiên cứu tin rằng những phát hiện mới có thể giúp giảm bớt tình trạng lạc nội mạc tử cung ở phụ nữ không muốn điều trị nội tiết tố. Phương pháp này không phải lúc nào cũng phù hợp bởi vì chúng hoạt động như một biện pháp tránh thai và nhiều phụ nữ mắc bệnh này ở độ t.uổi sinh đẻ.

Giáo sư Horne nói thêm: “Thông qua một thử nghiệm lâm sàng với DCA, chúng tôi sẽ có thể biết liệu các điều kiện chúng tôi quan sát được trong phòng thí nghiệm có được nhân rộng ở phụ nữ hay không”.

Janet Lindsay, giám đốc điều hành của tổ chức từ thiện Sức khỏe Phụ nữ, hoan nghênh nghiên cứu của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa do Vương quốc Anh tài trợ.

Bà nói: “Rất ít người có hiểu biết về lạc nội mạc tử cung cùng các phương pháp điều trị, nó có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và đã tiến triển rất ít trong hơn 40 năm. Chúng tôi rất vui mừng khi phương pháp điều trị mới của Giáo sư Andrew Horne thử nghiệm lâm sàng có thể là sự thay đổi lớn đến cuộc sống của nhiều phụ nữ”.

Nghiên cứu mới nhất được công bố trong biên bản của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia.

DCA lần đầu tiên trở nên phổ biến vào năm 2007 khi một nghiên cứu của Đại học Alberta xem xét các đặc tính chống ung thư tiềm năng của nó đã thu hút được sự quan tâm lớn.

Các nhà nghiên cứu đã công bố kết quả của một nghiên cứu cho biết DCA có thể điều trị các tế bào ung thư ở người được cấy vào chuột, thu nhỏ khối u mà không ảnh hưởng đến các tế bào khỏe mạnh. Một thử nghiệm lâm sàng trên một số ít người bị khối u não ác tính, được gọi là u nguyên bào thần kinh đệm, cũng đã được tiến hành.

Trong khi kết quả rất có triển vọng, các thử nghiệm lâm sàng đối với DCA như là một phương pháp điều trị ung thư còn đang trong giai đoạn đầu và các chuyên gia về ung thư vẫn còn hoài nghi. Nó không được chấp thuận là một phương pháp điều trị ung thư an toàn ở bất kỳ quốc gia nào, kể cả Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA).

Hương Giang

Theo dailymail/vietQ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *